Đề: Bình giảng bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt để thể hiện tình yêu đất nước
Bài văn mẫu Bình giảng bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt thể hiện tình yêu quê hương đất nước
Phân công:
Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Ông viết bài thơ Bếp Lửa năm 1963 khi còn là sinh viên đang học đại học ở nước ngoài.
Cảm xúc dạt dào, ca từ đẹp, giọng thơ nồng nàn, tươi mới, hình ảnh thơ độc đáo, sáng tạo, độc đáo, đó là những cảm nhận của nhiều người khi đọc bài ca dao này. Bài có 41 câu, phần lớn là thơ 8 chữ (31 câu), cũng có 7 câu thơ thất ngôn và 3 câu thơ 9 tiếng. Tất cả được phối hợp hài hòa, giàu vần điệu, đọc lên nghe thấy vui tai rất thú vị. Nhớ lại những kỉ niệm tuổi thơ của một thời gian khó – đói nghèo, chiến tranh, loạn lạc – qua hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa, người cháu ca ngợi đức hi sinh, sự tận tụy và tình yêu thương bao la của bà, đồng thời bày tỏ lòng biết ơn, thương nhớ bà không nguôi.
Ba câu thơ đầu nói về bếp lửa và tình yêu của em với chị. Bếp lửa được thắp lên trong sương sớm, ánh lửa “lậu” bập bùng, phản chiếu ánh sáng lên những bức tường nhà đóng kín cửa. Bếp lạnh “ấm áp” ấy còn mang cả tình yêu thương che chở, ôm ấp, “ôm ấp” của trái tim bà. Bếp lửa của bà là ngọn lửa của một thế giới đã trải qua “dưa nắng mưa”, đói nghèo, gian khổ. Nghĩ về bếp lửa, nghĩ về bếp lửa gia đình mà người cháu rất thích kể.
Hai câu đầu song hành với hình ảnh bếp lửa của bà. những từ: “ngọt ngào ấp ủ”, “thơ thẩn”! rất hình tượng, gợi hình; Từ “tình” được sử dụng rất nhuần nhuyễn qua câu thơ cảm thán khiến cảm xúc lan tỏa, thấm sâu vào hồn người:
Một ngọn lửa lẩn khuất trong sương sớm. Một ngọn lửa ấm áp, ấm áp. Anh yêu em biết bao nhiêu nắng mưa.
2. Năm câu thơ tiếp theo, tác giả lặp đi lặp lại: “khói”, “khói”, đã “làm nhòe mắt tôi”, làm “sống mũi tôi còn cay” đến bây giờ. Những kỉ niệm tuổi thơ khi “bốn tuổi”, kí ức về một thời tăm tối, đói khổ. Đó là năm “đói mòn”, năm Ất Dậu 1945, người chết đói như ngả rạ. Giọng thơ trầm lắng, đau lòng:
Lên bốn tuổi đã quen mùi khói Năm ấy là năm đói khát. Cha lên xe lam, khô gầy, chỉ nhớ khói trong mắt. Nghĩ lại sống mũi vẫn cay cay!.
Vị chát của khói bếp lửa nhà nghèo sẽ mãi đeo bám tâm hồn bao tuổi thơ; Dù cho năm tháng có trôi qua, kí ức ấy trở thành vết thương lòng không thể chữa lành.
3. Khổ thơ thứ ba gồm 11 dòng, gợi lại một số kỉ niệm sâu sắc của bà trong thời kì “Tám năm dài bà nhóm lửa”. Thật hồn nhiên và trong sáng khi nhà thơ tâm sự với con chim tu hú. Tiếng chim tu hú ríu rít trong những ngày hè, khi vải thiều chín đỏ. Tiếng chim tu hú là một âm thanh đồng quê nghe tha thiết. Con chim tu hú trong bài thơ là một sáng tạo của Bằng Việt khi nói về chị:
Tu hú trên cánh đồng xa Khi tu hú kêu, em có nhớ Bà Nội hay kể chuyện những ngày ở Huế Tu hú tha thiết làm sao!
Quá khứ và hiện tại đồng hiện tại. Con chim tu hú trở thành một mảnh hồn thơ ấu. Thương em vất vả, lo toan, biết nói cùng ai. Chỉ có thể tâm sự với con chim tu hú. Trách nhẹ mà thương nhiều:
Tú ho! Không về ở với bà Tiếng gọi chi trên cánh đồng xa Tiếng chim hót líu lo gợi ý: Bố mẹ bận việc, con ở với bà, bà nói cho con nghe. Mẹ dạy em làm, mẹ lo cho em ăn học.
Trong nhiều gia đình Việt Nam. Do hoàn cảnh khác nhau, vai trò của người bà – bà nội, bà ngoại – đã thay thế vai trò của người mẹ hiền. Các từ “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” thể hiện sâu sắc lòng nhân hậu, tình thương bao la, sự quan tâm chu đáo của bà đối với con cháu. Từ “bà” và từ “cháu” được lặp lại 4 lần gợi tả tình cảm thắm thiết giữa ông bà và cháu.
Được sống trong tình yêu là hạnh phúc. Em bé trong bài thơ Lò sưởi phải sống xa bố mẹ, tuy vợ chồng còn nhiều vất vả nhưng em rất hạnh phúc khi được sống trong vòng tay yêu thương của mẹ. do đó tôi cảm thấy ấm áp tha thiết:
Nhóm lửa nghĩ về sự vất vả của cô.
4. Đoạn thơ tiếp theo có 10 dòng nêu bật những phẩm chất cao quý của người bà kính yêu. Bà là chỗ dựa vững chắc về ý thức, sống trong những năm dài chiến tranh, khi “giặc đốt làng đốt phá” được sự “ủng hộ” của bà con lối xóm, hai bà dựng lại được túp lều tranh, nhưng bà vẫn “vững vàng” trước mọi tai ương, thử thách.
Vẫn vững vàng, bù lại chắc nịch rằng:
“Bố đang ở chiến khu, con có viết thư bố cũng không kể, kể đó, chỉ nói nhà yên bề gia thất thôi!”.
Từ “lò sưởi” cháu trai nghĩ về “lửa”. Một hình ảnh rất tráng lệ. “Ngọn lửa bà” sớm chiều bừng lên thành ngọn lửa vĩnh cửu, ngọn lửa tình yêu “luôn ủ”, ngọn lửa niềm tin vô cùng “bền bỉ” và bất diệt. Cùng với hình ảnh “ngọn lửa”, các từ chỉ thời gian: “sớm chiều, chiều tối”, các động từ: “ấm áp”, “chuẩn bị”, “chứa đựng” (chứa đựng niềm tin dai dẳng) đã khẳng định ý kiến trên. Ngay cả bản lĩnh sống của chị cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời loạn:
Rồi sớm, chiều, mẹ nhóm lửa.
Điệp ngữ “một bếp lửa” và cấu trúc song đối đã làm cho giọng thơ khỏe khoắn, tràn đầy cảm xúc và tự hào.
5. Tám câu thơ tiếp theo là những suy ngẫm sâu sắc của nhà thơ, của người cháu về người bà kính yêu, về bếp lửa trong mỗi gia đình Việt Nam chúng ta. Hoàn cảnh của Hà nhiều “rồng”, trải qua nhiều “mưa dầm” vất vả. Bà cần mẫn làm lụng, chịu thương chịu khó, thức khuya vì bát cơm, manh áo của con cháu trong gia đình, bài thơ chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc. Tôi vô cùng cảm phục và biết ơn:
Từ lâu cô đã biết bao nhiêu năm trời nắng mưa. Đến nay, cô vẫn giữ thói quen dậy sớm.
Mẹ đã thắp lửa suốt cuộc đời mình, đã trải qua nắng mưa “mười chục năm”. Bà không chỉ thắp lửa bằng đôi bàn tay gầy guộc của tuổi già mà còn bằng tất cả tấm lòng “nhân hậu” dành cho con cháu. Từ “nhóm” được lặp lại 4 lần, được đan cài bằng những chi tiết rất thực và gần gũi với mọi người, mọi gia đình chúng ta. Vị ngọt của khoai mì. Hương thơm ngào ngạt của nồi xôi mới,… đều do một tay chị “nhóm”. Cô đã nhen nhóm, nuôi dưỡng trong tâm hồn các con nhiều “tình yêu”, nhiều ước mơ, hoài bão. Tâm hồn và khát vọng tuổi thơ đã bừng sáng từ ngọn lửa mà bà đã “thắp sáng” hàng chục năm qua:
Nhóm bếp lửa hồng ấm áp Nhóm yêu thương củ khoai, Nhóm nồi cơm mới nồi cơm chung niềm vui, Nhóm dạy dỗ tình cảm tuổi thơ.
Ánh sáng của chiếc lò sưởi trong gia đình soi rõ chân dung người bà kính yêu. Bà cố kết thân tình. Trong kí ức của đứa cháu, hình ảnh người bà đượm màu cổ tích. Nghĩ đến bếp lửa, nghĩ đến bà, nhà thơ đã thốt lên lời ngợi ca. Cảm xúc kìm nén bỗng ùa ra. Cảm xúc thơ, chất trí tuệ của bài thơ qua câu cảm thán gợi cho ta bao suy nghĩ về bà, về mẹ, về quê hương yêu thương, về bếp lửa gia đình:
Ôi lạ lùng và thiêng liêng – ngọn lửa!
6. Bốn câu thơ kết bài thể hiện một cách đáng yêu tình cảm, lòng kính trọng và biết ơn của người cháu nhỏ nay đã đi xa. Thế mới vui, đẹp đến thế, “khói trăm tàu”, “cháy trăm nhà, niềm vui trăm phương”, nhưng tôi vẫn không khỏi bồi hồi, nhớ nhung. ngọn lửa gia đình yêu thương. Lời thơ trở nên ngọt ngào, dịu dàng:
Bây giờ tôi đã đi rồi. Có khói trăm tàu Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngủ Nhưng vẫn không bao giờ quên nhắc: Mai bật bếp lên chứ?…
Không gian và thời gian cách biệt, và dù hoàn cảnh có đổi thay nhưng tình yêu hoài niệm vẫn da diết. Cảm xúc thơ như những đợt sóng cuộn trào trong lòng người. Đó là phần còn lại của người cha và dư âm của tình mẫu tử – cháu.
Bếp lửa là một bài thơ rất hay và độc đáo. Trong ca dao, trong thơ ca dân tộc có rất nhiều bài hát hay về mẹ hiền. Bếp lửa là bài thơ viết về người bà kính yêu có tình thương bao la. Đó là sự độc đáo. Ca từ đẹp, lời thơ trong sáng trẻ trung. Những hình ảnh thơ: “bếp lửa”, “no hun”, “ngọn lửa”, “tiếng chim tu hú”,… đan cài, xâu chuỗi, rất tôn thờ, đầy ấn tượng. Đọc bài thơ, ta vô cùng xúc động trước tình cảm tuổi thơ, hình ảnh và vai trò của người bà trong gia đình được nhà thơ nhắc đến. Từ đó ta thấy rõ hơn tình cảm gia đình là một trong những tình cảm thiết tha nhất của người Việt Nam.
Với Bằng Việt, tình cảm gia đình chan hòa, sâu đậm với tình yêu đất nước. Tiếng chim tu hú, ánh lửa “mỉm cười trong sương sớm”, vị ngọt của sắn, nồi xôi mới,… những âm thanh ấy, hương vị đậm đà, ánh lửa bập bùng và tình yêu thương của bà… hồn quê là tình sông nước. Phải đi xa mới nhớ. Nếu ai trong chúng ta còn có bà, có bà, có bà, có người bà đã khuất, xin hãy khẽ đọc bài thơ Bếp Lửa, chắc chắn bạn sẽ tìm thấy cái tình và cái đẹp mà nhà thơ gửi gắm…
——HẾT——-
Tương tự, chúng tôi đã gợi ý Nhận xét bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt để thể hiện tình yêu quê hương, đất nước trong bài tiếp theo, các em chuẩn bị trả lời các câu hỏi trong SGK, Nhận xét 3 khổ thơ đầu của bài thơ” The Fire” và cùng với họ. với phần Cảm nghĩ về tình mẫu tử trong bài thơ Bếp lửa để học tốt Ngữ Văn lớp 9 hơn.
Thơ về quê hương là chủ đề được nhiều người tìm kiếm, bạn có thể dùng bài thơ này để bày tỏ cảm xúc hay bày tỏ nỗi nhớ quê hương. Cùng chọn những bài thơ viết về quê hương theo danh mục Thơ hay để có thêm nhiều sự lựa chọn nhé.
Bản quyền bài viết thuộc về trường THPT Lê Hồng Phong. Mọi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: https://c3lehongphonghp.edu.vn
Bình luận bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt thể hiện tình yêu quê hương đất nước
Bạn thấy bài viết Bình giảng bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt để cho thấy tình yêu quê hương quốc gia có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Bình giảng bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt để cho thấy tình yêu quê hương quốc gia bên dưới để pgddttramtau.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: pgddttramtau.edu.vn của PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO HUYỆN TRẠM TẤU
Nhớ để nguồn bài viết này: Bình giảng bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt để cho thấy tình yêu quê hương quốc gia của website pgddttramtau.edu.vn
Chuyên mục: Văn học