Ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ

Bạn đang xem: Ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ tại pgddttramtau.edu.vn

>> Những bài văn tìm hiểu Chữ người tử tù hay, đạt điểm 10

4 Bài văn mẫu Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù

 

1. Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù, mẫu số 1:

Một tác phẩm hay không chỉ cần có nội dung hấp dẫn mà còn cần tới những đặc sắc nghệ thuật nhất định. Có thể nói rằng có những đặc sắc nghệ thuật đã mang tới thành công và sự hấp dẫn cho tác phẩm. Ngoài cốt truyện hấp dẫn bất thần, chi tiết nghệ thuật mang những ý nghĩa sâu sa, những tiếng nói đậm chất vùng miền nào đó thì còn nhiều nghệ thuật khác nữa. Trong truyện ngắn Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ cũng vậy. Hai tác phẩm có những đặc sắc nghệ thuật khác nhau thế nhưng nghệ thuật chung mà cả hai tác phẩm cùng có đó chính là nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối.

Trước hết nghệ thuật đó được thể hiện rất rõ trong tác phẩm chữ người tử tù. Như chúng ta đã biết thì nghệ thuật này được sử dụng thành công trong đoạn trình bày cảnh Huấn Cao cho viên quan ngục chữ. chính nghệ thuật này đã mang lại những trị giá biểu hiện nôi dung của cảnh tượng đó và cũng có nhẽ vậy mà cảnh tượng ấy được xem là cảnh tượng chưa từng có.

trước hết là ánh sáng trong đoạn ấy. có thể nói trong cảnh cho chữ ấy ánh sáng duy nhất chỉ có một ngọn đuốc soi sáng căn phòng. Ánh sáng ấy không thể rực rỡ mà chi đủ để huấn Cao có thể nhìn rõ mà viết chữ tặng quản ngục mà thôi. Thật vậy, nhà văn Nguyễn Tuân đã trình bày thật chuẩn xác cái ánh sáng ấy. ba con người chụm lại bên tờ giấy với ngọn đuốc đủ để thắp sáng cho Huấn Cao viết chữ.

vậy mà bóng tối thì lại dày đặc, nhường nhịn như ở đây không chỉ có sự tương phản giữa không gian cho chữ và không gian nhà tù, giữa người cho chữ và người thụ hưởng chữ thái độ của họ mà còn tương phản giữa ánh sáng và bóng tối. Chúng ta không thể nào quên được cái không gian bóng tối bao chùm ấy. Không gian thì toàn phân gián phân chuột ẩm ướt và gớm ghê. thế nhưng cái đẹp đã thăng hoa lấn lướt tất cả những điều đó. Lấy bóng tối để làm nên cho ánh sáng ấy Nguyễn Tuân nhằm nói lên sự thức tỉnh của con người khỏi những “bản nhạc xô người tình” của cuộc sống kia. Và ở đây nó chính là sự thức tỉnh của viên quan ngục.

Tiếp theo nghệ thuật đó cũng được thể hiện rất rõ trong tác phẩm hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam. Có thể nói rằng qua những trình bày của Thạch Lam chúng ta thấy được rõ nghệ thuật ấy nhất là cảnh chợ tàn. Hình ảnh của phố huyện trong tác phẩm hiện lên như một miền quê bị lãng quê hình ảnh những cảnh chiều buông xuống gợi lên sự rơi rụng tàn tạ. Không chỉ vậy mà khi nó về đêm khi những phiên chợ ồn ào kết thúc thì nó lại càng tàn tạ hơn. Nghệ thuật lấy ánh sáng để trình bày bóng tối của Thạch Lam vô cùng thành công trong việc biểu hiện nội dung. Nhà văn tài ở chỗ nói ánh sáng nhiều hơn nhưng người đọc vẫn thấy được sự dày đặc của bóng. Ánh sáng được nói tới như là hạt sáng, khe sáng, quầng sáng, bầu tròi hàng nghìn ngôi sao ghen nhau lóng lánh, ánh sáng từ ngọn đèn Liên, hột sáng từ những ngọn đèn chị Tý thế nhưng nó không thể nào đấu lại nhưng bóng tối kia trong khi Thạch Lam chỉ dành cho nó có mấy câu văn. “Tối hết cả”, tối đường từ nhà ra ngõ đều thăm thẳm đen xì, có thể thấy rằng đó chính là lấy cái ít để nói cái nhiều.

Trong tác phẩm này còn sử dụng nghệ thuật trình bày bóng tối, ánh sáng ở đoạn cuối khi tàu đêm tới. Đó là ánh sáng của đoàn tàu với những tia lửa như chớp, rồi ánh sáng rực trên những khoa hạng sang nhất lố nhố những người. Thế rồi khi ánh sáng ấy qua đi chỉ còn nhìn thấy đốm lửa hồng thì phố huyện lại ngập tràn trong bóng tối.

Có thể nói chính nghệ thuật ấy là phương thức cao hóa biểu thị nội dung của tác phẩm. Cả hai tác phẩm trên đều sử dụng ánh sáng và bóng tối để nói lên ý nghĩa của nội dung đó. nếu như như cảnh cho chữ diễn ra trong những ánh sáng bóng tối ấy nhằm nói lên sự thăng hoa của cái đẹp và sự sắp gũi nhau của con người thì hai đứa trẻ sử dụng nghệ thuật ấy để nói lên sự tối tăm của cuộc sống nơi phố huyện. hay đó chính là sự nghèo đói lam lũ khổ cực, sự cầm cự sống của những con người nơi đây.

Tuy nhiên hai nhà văn, hai cách sử dụng nghệ thuật khác nhau nhằm mục đích để nói lên những ý nghĩ của mình.

Trước hết là Nguyễn Tuân thì ở đây ông đã nói tới bóng tối nhiều hơn để cho thấy được sự tỏa sáng của ngọn đuốc kia dẫu cho nó chỉ là một nguồn ánh sáng. Bóng tối kia dù dày đặc nhưng lại không thể nào che lấp được ánh sáng kia. Đồng thời trình bày như thế nhà văn muốn gửi tới ý nghĩa của cảnh tượng ấy là cái đẹp thăng hoa dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng như con người xóa bỏ mọi ranh giới tăm tối để xích lại sắp nhau hơn.

Còn Thạch Lam thì lại khác. Ông trình bày ánh sáng nhiều hơn là bóng tối, nào khe sáng, hột sáng… bóng tối chỉ được diễn tả trong một hai câu văn.

Thế nhưng chúng ta lại thấy được ý đồ nghệ thuật của nhà văn đó chính là làm vượt bậc bóng tối để cho thấy sự tối tăm nghèo đói của những con người nơi đây.

Qua đây ta khẳng định được một điều tác phẩm văn học hay thì thường có những nghệ thuật đặc sắc. Hai đứa trẻ và chữ người tử tù chính vì vậy mà rất xứng đáng là một tác phẩm hay. Đồng thời hai nhà văn đó xứng đáng là một nhà văn giỏi.

—————- Hết bài 1 —————–

Sau khi tìm hiểu bài mẫu hướng dẫn tìm hiểu Ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ, nếu như muốn hiểu hơn về nội dung, tình huống truyện, đặc điểm tính cách những nhân vật, những em có thể tìm hiểu những bài tìm hiểu một cảnh tượng xưa nay chưa từng có trong truyện Chữ người tử tù, tìm hiểu tình huống truyện trong truyện ngắn Chữ người tử tù, tìm hiểu cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù, Tóm tắt tình huống truyện Chữ người tử tù,… 

2. Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù, mẫu số 2:

Khi nhắc tới Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân người ta ắt hẳn không thể quên được hình tượng của Huấn Cao và hình ảnh cho chữ của ông trong ngục tù u tối. Hình ảnh ấy như hiện lên làm sáng cả một vùng và đồng thời vượt bậc lên những ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Tác phẩm ấy đã đi vào sự chú ý của độc giả và cả những nhà phê bình văn học. Có thể nói những gì mà tác phẩm mang lại không chỉ ngừng lại ở cốt truyện hay tình huống mà chính là đặc sắc nghệ thuật mà không phải người nào cũng làm được và chạm tới được.

Đúng như những nhà phê bình văn học đã cho thấy nôi dung hấp dẫn không thể kéo người đọc nhớ và ghi nhận những đóng góp của tác phẩm đó mà phải kể tới những nét nghệ thuật đặc sắc. Và một trong những nghệ thuật vượt bậc lên đó chính là cách mà Nguyên Tuân sử dụng mảng sáng tối trong tác phẩm của mình. Hay nói cách khác đó chính là cách sử dụng ánh sáng và bóng tối ở trong tác phẩm văn học của ông. Nó mang tới cho người đọc những cái nhìn mới lại và những cái đặc sắc cho tác phẩm về triết lí nhân văn.

Một tác phẩm hay không chỉ cần có nội dung hấp dẫn mà còn cần tới những đặc sắc nghệ thuật nhất định. Có thể nói rằng có những đặc sắc nghệ thuật đã mang tới thành công và sự hấp dẫn cho tác phẩm. Ngoài cốt truyện hấp dẫn bất thần, chi tiết nghệ thuật mang những ý nghĩa sâu sa, những tiếng nói đậm chất vùng miền nào đó thì còn nhiều nghệ thuật khác nữa.

Có thể nói Nguyễn Tuân và Thạch Lam là hai nhà văn đa tài của nền văn học Việt Nam. Chưa nói tới nội dung và cốt truyện của những tác phẩm, Thạch Lam và Nguyễn Tuân luôn để lại dấu ấn cho người đọc người nghe thông qua những nghệ thuật đặc sắc trong đó có nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù.

Trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân thì thứ ánh sáng trước hết hiện lên trong căn phòng ngục tù là ánh sáng của ngọn đuốc. Thứ ánh sáng hiếm hoi ấy lại có thể chiếu sáng cho con người Huấn Cao cho chữ cho viên quản ngục và chỉ có một ngọn đuốc duy nhất để chiếu sáng gian phòng ấy.

Nguyễn Tuân đã lựa chọn cách lấy ánh sáng để làm lấn lướt đi không gian vốn dĩ ẩm ướt tăm tối của ngục tù. Để át đi không gian tăm tối đầy phân chuột ấy nhưng hình ảnh cho chữ lại được vượt bậc lên với những đường nét vừa giản dị lại hết sức thiêng liêng. Nguyễn Tuân như muốn thứ ánh sáng ấy chính là cái cớ để muốn con người bật ra khỏi “bản nhạc xô người tình” của cuộc sống kia.

Ánh sáng ấy cũng tạo điều kiện để tháo nút cho những mảng sáng tối trong con người của viên quản ngục. Hình ảnh và nghệ thuật ánh sáng và bóng tối của Nguyễn Tuân cũng phần nào góp phần vào sự thành công vào công cuộc lay chuyên và thức tỉnh thiên lương trong sáng của Huấn Cao dành cho viên quản ngục. Qua đây ta cũng thấy được không chỉ có ánh sáng của bó đuốc là hiện hữu mà còn là thứ ánh sáng của tâm hồn của thiên lương luôn soi tận những tấm lòng của người đời.

Còn đối với Hai đứa trẻ của Thạch Lam, ông như thổi một làn gió mới cho người cảm thụ văn học. Trong tác phẩm nghệ thuật sử dụng ánh sáng bóng tối cũng được ông sử dụng một cách triệt để.

Chúng ta có thể thấy được ánh sáng và bóng tối có sự đi lại khởi đầu từ hình ảnh phiên chợ tàn ở chốn phố huyện trong khi có tàu chạy qua. Phiên chợ tàn cũng lúc là những hình ảnh mờ nhòa và đáng thương biết bao nhiêu. Xuất hiện từ đó là hình ảnh khi lũ trẻ nhà nghèo nhặt nhạnh những thứ còn sót lại trên chợ và không gian khởi đầu chuyển tối

Ánh sáng trong tác phẩm như được chắp nhặt từng chút một tẹo một để tạo nên nguồn sáng cho người dân phố huyện: hạt sáng, khe sáng, quầng sáng, bầu trời hàng nghìn ngôi sao ghen nhau lóng lánh không những thế ánh sáng đó còn được gom nhặt từ ánh sáng từ ngọn đèn Liên ngọn đèn chị Tý. không những thế một thứ ánh sáng mới lạ đó chính là ánh sáng của đoàn tàu mà mọi người đêu mong chờ để nhìn thấy thứ ánh sáng ấy ánh sáng của một vùng xa xôi trên khắp mọi miền quốc gia.

Hai tác giả thông qua nghệ thuật sử dụng ánh sáng bóng tối tác giả khắc họa cảnh sống ở chốn phố huyện cũng như hình ảnh tối tăm nhưng bừng sáng ở trong không gian của ngục lao. Tuy nhiên khác với Thạch Lam, Nguyễn Tuân cũng là người sử dụng nghệ thuật ánh sáng bóng tối thành công đặc biệt ở đoạn trích Chữ người tử tù hình ảnh bóng tối dù dày đặc hơn nhưng cũng không thể lấn lướt đi ánh sáng của ngọn đuốc của thiên lương và những tâm hồn cao cả. Còn mặc dù đã sử dụng nhiều hình ảnh ánh sáng trong tác phẩm nhưng người ta vẫn mường tượng ra một phố huyện với cảnh nghèo nàn trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Cả hai tác phẩm hai tác giả khác nhau sử dụng nghệ thuật ánh sáng bóng tối mang lại cho người đọc những liên tưởng và ý nghĩa khác nhau. Mỗi tác phẩm mang tới cho người đọc những ý nghĩa riêng biệt tuy nhiên cũng không thể phủ nhận chính nghệ thuật này góp phần vào sự thành công của hai thiên truyện.

 

3. Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù, mẫu số 3:

Một tác phẩm hay không chỉ cần có nội dung hấp dẫn mà còn cần tới những đặc sắc nghệ thuật nhất định. Có thể nói rằng có những đặc sắc nghệ thuật đã mang tới thành công và sự hấp dẫn cho tác phẩm. Ngoài cốt truyện hấp dẫn bất thần, chi tiết nghệ thuật mang những ý nghĩa sâu sa, những tiếng nói đậm chất vùng miền nào đó thì còn nhiều nghệ thuật khác nữa. Trong truyện ngắn Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ cũng vậy. Hai tác phẩm có những đặc sắc nghệ thuật khác nhau thế nhưng nghệ thuật chung mà cả hai tác phẩm cùng có đó chính là nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối.

Trước hết nghệ thuật đó được thể hiện rất rõ trong tác phẩm chữ người tử tù. Như chúng ta đã biết thì nghệ thuật này được sử dụng thành công trong đoạn trình bày cảnh Huấn Cao cho viên quan ngục chữ. chính nghệ thuật này đã mang lại những trị giá biểu hiện nôi dung của cảnh tượng đó và cũng có nhẽ vậy mà cảnh tượng ấy được xem là cảnh tượng chưa từng có.

trước hết là ánh sáng trong đoạn ấy. Có thể nói trong cảnh cho chữ ấy ánh sáng duy nhất chỉ có một ngọn đuốc soi sáng căn phòng. Ánh sáng ấy không thể rực rỡ mà chi đủ để huấn Cao có thể nhìn rõ mà viết chữ tặng quản ngục mà thôi. Thật vậy, nhà văn Nguyễn Tuân đã trình bày thật chuẩn xác cái ánh sáng ấy. ba con người chụm lại bên tờ giấy với ngọn đuốc đủ để thắp sáng cho Huấn Cao viết chữ.

vậy mà bóng tối thì lại dày đặc, nhường nhịn như ở đây không chỉ có sự tương phản giữa không gian cho chữ và không gian nhà tù, giữa người cho chữ và người thụ hưởng chữ thái độ của họ mà còn tương phản giữa ánh sáng và bóng tối. Chúng ta không thể nào quên được cái không gian bóng tối bao chùm ấy. Không gian thì toàn phân gián phân chuột ẩm ướt và gớm ghê. thế nhưng cái đẹp đã thăng hoa lấn lướt tất cả những điều đó. Lấy bóng tối để làm nên cho ánh sáng ấy Nguyễn Tuân nhằm nói lên sự thức tỉnh của con người khỏi những “bản nhạc xô người tình” của cuộc sống kia. Và ở đây nó chính là sự thức tỉnh của viên quan ngục.

Tiếp theo nghệ thuật đó cũng được thể hiện rất rõ trong tác phẩm hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam. Có thể nói rằng qua những trình bày của Thạch Lam chúng ta thấy được rõ nghệ thuật ấy nhất là cảnh chợ tàn. Hình ảnh của phố huyện trong tác phẩm hiện lên như một miền quê bị lãng quê hình ảnh những cảnh chiều buông xuống gợi lên sự rơi rụng tàn tạ. Không chỉ vậy mà khi nó về đêm khi những phiên chợ ồn ào kết thúc thì nó lại càng tàn tạ hơn. Nghệ thuật lấy ánh sáng để trình bày bóng tối của Thạch Lam vô cùng thành công trong việc biểu hiện nội dung. Nhà văn tài ở chỗ nói ánh sáng nhiều hơn nhưng người đọc vẫn thấy được sự dày đặc của bóng. Ánh sáng được nói tới như là hạt sáng, khe sáng, quầng sáng, bầu tròi hàng nghìn ngôi sao ghen nhau lóng lánh, ánh sáng từ ngọn đèn Liên, hột sáng từ những ngọn đèn chị Tý thế nhưng nó không thể nào đấu lại nhưng bóng tối kia trong khi Thạch Lam chỉ dành cho nó có mấy câu văn. “Tối hết cả”, tối đường từ nhà ra ngõ đều thăm thẳm đen xì, có thể thấy rằng đó chính là lấy cái ít để nói cái nhiều.

Trong tác phẩm này còn sử dụng nghệ thuật trình bày bóng tối, ánh sáng ở đoạn cuối khi tàu đêm tới. Đó là ánh sáng của đoàn tàu với những tia lửa như chớp, rồi ánh sáng rực trên những khoa hạng sang nhất lố nhố những người. Thế rồi khi ánh sáng ấy qua đi chỉ còn nhìn thấy đốm lửa hồng thì phố huyện lại ngập tràn trong bóng tối.

Có thể nói chính nghệ thuật ấy là phương thức cao hóa biểu thị nội dung của tác phẩm. Cả hai tác phẩm trên đều sử dụng ánh sáng và bóng tối để nói lên ý nghĩa của nội dung đó. nếu như như cảnh cho chữ diễn ra trong những ánh sáng bóng tối ấy nhằm nói lên sự thăng hoa của cái đẹp và sự sắp gũi nhau của con người thì hai đứa trẻ sử dụng nghệ thuật ấy để nói lên sự tối tăm của cuộc sống nơi phố huyện. hay đó chính là sự nghèo đói lam lũ khổ cực, sự cầm cự sống của những con người nơi đây.

Tuy nhiên hai nhà văn, hai cách sử dụng nghệ thuật khác nhau nhằm mục đích để nói lên những ý nghĩ của mình.

Trước hết là Nguyễn Tuân thì ở đây ông đã nói tới bóng tối nhiều hơn để cho thấy được sự tỏa sáng của ngọn đuốc kia dẫu cho nó chỉ là một nguồn ánh sáng. Bóng tối kia dù dày đặc nhưng lại không thể nào che lấp được ánh sáng kia. Đồng thời trình bày như thế nhà văn muốn gửi tới ý nghĩa của cảnh tượng ấy là cái đẹp thăng hoa dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng như con người xóa bỏ mọi ranh giới tăm tối để xích lại sắp nhau hơn.

Còn Thạch Lam thì lại khác. Ông trình bày ánh sáng nhiều hơn là bóng tối, nào khe sáng, hột sáng…bóng tối chỉ được diễn tả trong một hai câu văn.

Thế nhưng chúng ta lại thấy được ý đồ nghệ thuật của nhà văn đó chính là làm vượt bậc bóng tối để cho thấy sự tối tăm nghèo đói của những con người nơi đây.

Qua đây ta khẳng định được một điều tác phẩm văn học hay thì thường có những nghệ thuật đặc sắc. Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù chính vì vậy mà rất xứng đáng là một tác phẩm hay. Đồng thời hai nhà văn đó xứng đáng là một nhà văn giỏi.

 

4. Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ và Chữ người tử tù, mẫu số 4:

Ánh sáng và bóng tối vốn là hai phương diện quan trọng của cuộc sống, luôn luôn tồn tại kế bên nhau, bổ sung cho nhau. Trong hội họa, ánh sáng và bóng tối là một thủ pháp cơ bản được sử dụng để khắc họa con người và sự vật trong cuộc sống.

Trong văn học, ánh sáng và bóng tối cũng được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật nhằm tạo tình huống truyện, chuyển tải nội dung tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Với Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân và Hai đứa trẻ của Thạch Lam, ánh sáng và bóng tối được sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật nòng cốt “biểu hiện cách khai thác hình tượng đối với cuộc sống, như thủ pháp thuyết phục và thu hút độc giả” của tác giả. Nguyễn Tuân và Thạch Lam tuy cùng thuộc dòng văn học lãng mạn nhưng mỗi người có một cách sử dụng những thủ pháp nghệ thuật hoàn toàn khác nhau, tạo nên những toàn cầu nghệ thuật riêng biệt và độc đáo, mang đậm phong cách tư nhân của tác giả.

Miệt mài trong hành trình tìm kiếm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, Nguyễn Tuân và Thạch Lam, trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ, ánh sáng và bóng tối được sử dụng không chỉ như một nguyên tắc tạo tình huống truyện mà còn vươn tới ý nghĩa biểu tượng về cái đẹp trong thế cục. Nguyễn Tuân viết Chữ người tử tù từ cảm hứng về một thú chơi tao nhã của người xưa, trong một tình huống đặc biệt mà người viết chữ và người chơi chữ là người tử tù và người quản ngục. Hai nhân vật này xuất hiện trong tác phẩm như một kiểu song trùng của sự tồn tại không thể thiếu nhau giữa hai khách thể đối cực, như ánh sáng và bóng tối, thậm chí là đối thủ trong một hoàn cảnh đặc biệt. Song chính vì là đối cực như ánh sáng với bóng tối nên bản thân sự khác nhau này cũng đã hàm chứa một sự tương liên, bổ sung cho nhau, thậm chí chuyển hóa từ tối ra sáng như một quy luật thế tất.

“Chữ” hiểu theo nghĩa của tác phẩm chính là Thư pháp, một “nghệ thuật thể hiện chữ viết và là phương tiện để biểu lộ tiềm thức của con người… Thư pháp gắn với tính cách, tâm tư, tình cảm, quan niệm triết học, nhân sinh quan của người viết”. Từ nét chữ, người ta có thể đọc được tính tình, tư cách, khí phách người viết, nó thể hiện toàn cầu nội tâm của người viết chữ. Vì vậy người xưa coi việc chơi chữ như một cách di dưỡng tính tình, un đúc ý thức. Viên quản ngục yêu chữ của Huấn Cao là yêu tư cách, khí phách, tài hoa của người viết chữ, yêu cái đẹp tỏa ra từ toàn cầu nội tâm của con người này.

Không gian nghệ thuật của Chữ người tử tù chủ yếu được xây dựng dựa trên không gian nhà tù – một “trại giam tối om”, quang cảnh nền ấy ngập tràn bóng tối, “quạnh quẽ” và “tối om”, tất cả đều nhuốm vẻ lặng lẽ, u ám. Mẩu hội thoại ngắn đầy e sợ, giữ gìn, nghi ngại lẫn nhau giữa quản ngục và thầy thư lại như khắc họa rõ hơn số phận những con người quanh năm trong bóng tối, tuy tự do về nhân thân nhưng lại bị tù tội về tư cách. Không gian nghệ thuật của tác phẩm được giới hạn ở một nhà tù nhỏ, một cõi nhân sinh mà bóng tối nhiều hơn ánh sáng, ánh sáng chỉ là một ngọn đèn leo lét lọt thỏm giữa bóng tối om mù và quạnh quẽ, chỉ là một vài vì tinh tú nhấp nháy xa xa, trong đó có một “ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ”. Chút ánh sáng ấy quá nhỏ nhoi so với toàn bộ màn đêm bao phủ nơi đây, nhưng giữa sự tương phản có vẻ không cân đối ấy, tác giả muốn gởi gắm niềm tin về thiên lương con người, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, dù le lói nhưng không bao giờ tắt, và nếu như có thời cơ nó lại bùng lên mạnh mẽ như niềm tin của con người vào cái tốt cái đẹp, vào ánh sáng. Đó là nét đẹp, là chút ánh sáng còn sót lại trong tâm hồn ngục quan. Con người đang tồn tại ở một nơi mà những vẻ đẹp và những điều xấu xa luôn kế cận nhau, ánh sáng luôn có nguy cơ bị dập tắt bởi bóng tối.

Trong toàn cầu tăm tối ấy, quản ngục như lạc lõng cô độc trong toàn cầu riêng của mình: một ngọn đèn leo lét, một bóng tối om mù quạnh quẽ, tiếng trống thu không, tiếng kiểng tiếng mõ thưa thớt, tiếng chó sủa vào những bóng ma mơ hồ kì bí cứ ám mãi vào màn đêm hoang hút… Những sợi dây, những vòng dây trói vô hình cứ tròng lên, thít vào thế cục mòn rỉ của con người mà Nguyễn Tuân nói là “đang băn khoăn ngồi bóp thái dương”, với một ngoại hình mòn mỏi, đơn chiếc “tóc hoa râm, râu đã ngả màu”. Tuy vậy ẩn sâu bên trong con người này là một đời sống tâm hồn như “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn và xô người tình. Nguyễn Tuân đã rất thành công khi tạo lập bối cảnh và không khí để xây dựng tình huống truyện. Nỗi băn khoăn dẫn tới quyết định biệt đãi Huấn Cao của quản ngục được đặt trong một không gian nền đầy bóng tối – nơi chỉ có vài đốm sáng nhấp nháy trên bầu trời, thậm chí có một ngôi sao chính vị sắp từ biệt vũ trụ, tất cả như chòng chành giữa hai thế đứng để rồi ánh sáng của thiên lương tuy nhỏ nhoi vẫn thắng lợi, dẫn tới một thái độ xử sự đẹp.

Cuộc gặp gỡ giữa hai con người tưởng như đối địch quyết liệt nhưng lại hòa hợp vô cùng ở kết thúc của truyện. Huấn Cao càng khí khái, cương trường, khinh thế ngạo vật bao nhiêu, quản ngục càng nhẫn nhịn, lễ phép, cam chịu bấy nhiêu. Tất cả chỉ vì sự tác động của cái đẹp, của ánh sáng tỏa ra từ một tư cách, vì quý trọng một tài năng, xót xa một báu vật văn hóa sắp bị chôn vùi vĩnh viễn. Mạch ngợi ca tăng lên từ hai phía đối lập của hai thế đứng, hai tâm trạng, hai thái độ xử sự, hai mặt của cuộc sống. Chính công việc, môi trường trại giam đã ràng buộc quản ngục vào một giới hạn nghiệt ngã, con người này hàng ngày là phương tiện, là người máy, còn sâu trong cõi lòng kia chất chứa một nỗi đơn chiếc không kẻ tỏ bày, không người tri kỉ tri kỷ. Một con người mà mới thoạt trông bên ngoài tưởng như là một khối bóng tối khổng lồ nhưng rồi cái tài hoa của Nguyễn Tuân là đã biết chớp lấy cái khoảnh khắc thuận lợi nhất để chút ánh sáng le lói trong tâm hồn quản ngục có thời cơ bừng sáng lên. Không những thế tác giả còn dựng tình huống cho phút giây bừng sáng đó thành thiên thu vĩnh viễn ở đoạn kết – ở sự thắng lợi của ánh sáng với bóng tối, trong “cảnh cho chữ”, “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Về truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam có thể nói đây là một truyện ngắn “phi cốt truyện”. Đó là điểm đặc biệt đồng thời cũng là một trong những nét làm nên sở thích riêng trong nghệ thuật viết truyện của Thạch Lam.

Ánh sáng và bóng tối trong Hai đứa trẻ được sử dụng như một thủ pháp chính trong nghệ thuật dựng truyện của Thạch Lam. Sở dĩ nói tương tự bởi ánh sáng và bóng tối được tác giả sử dụng trong cách xây dựng bối cảnh tác phẩm, nhân vật lẫn trong những chi tiết nhỏ nhằm biểu hiện chủ đề của tác phẩm.

Bối cảnh của Hai đứa trẻ là không gian phố huyện buồn tẻ – một không gian nghệ thuật đặc trưng xuất hỉện tương đối nhiều trong truyện ngắn của ông. Đó là một không gian đan xen giữa làng quê và thành thị. Thời gian là một buổi chiều “êm đềm như ru” đang sắp nhường chỗ cho bóng đêm, “dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. quang cảnh phố huyện trong bóng tối gợi không khí buồn buồn, hiu hắt, chậm chậm, đơn điệu của cuộc sống nơi đây. Bóng tối ngập đầy trong đôi mắt của Liên. Số phận của lũ trẻ bới rác và những người lao động nghèo ở đây cũng nhạt nhòa trong bóng tối. Bối cảnh phố huyện và tâm trạng nhân vật được tác giả xây dựng vào những thời khắc khác nhau: lúc hoàng hôn, khi đêm về và lúc đêm đã khuya. Trong ánh sáng của ngọn đèn leo lét trên chõng hàng chị Tý, trên bếp lửa của chưng Siêu và những hột sáng lọt qua phên nứa từ ngọn đèn của chị em Liên, con người hiện lên như những cái bóng vật vờ không số phận, ngoại trừ cách. Ngoài cuộc sống mò cua bắt ốc ban ngày ra, tối tới họ tập trung ở đây như để khởi đầu một cuộc sống thứ hai trong bóng tối, nhưng là để hướng tới ánh sáng. Tất cả cùng chờ đợi một điều gì đó mới mẻ, khác lạ so với cảnh đời buồn tẻ, quẩn quanh, tù hãm của cái “ao đời bằng phẳng” hàng ngày họ nếm trải.

Hình tượng ánh sáng ở đây được xây dựng như một hình tượng nghệ thuật độc đáo, gây nhiều khiếp sợ. Những hột sáng ít ỏi, nhỏ nhoi lọt thỏm giữa không gian phố huyện ngập tràn bóng tối tăng thêm độ mênh mông tối tăm, không khí buồn lặng của quang cảnh phố huyện vào đêm. Nỗi buồn chán của hai đứa trẻ và những người dân phố huyện nếu như khi chớm đêm mới chỉ ở mức độ mơ hồ thì càng về khuya nó càng rõ nét. Bầu trời đầy sao và vũ trụ bát ngát như tương phản, đối lập gay gắt với cuộc sống tù đọng đơn điệu ở phố huyện, hé mở tâm hồn khát khao hạnh phúc của chị em Liên. Lúc này nỗi buồn không còn nhòa nhạt mơ hồ nữa mà đã sắc nét, rõ rệt hơn khi cô nhớ về Hà Nội, một thứ “siêu cảm giác” bởi cô đang hồi ức về quá khứ, cảm thấy bằng tâm hồn về một thời khác với thời hiện tại Liên đang sống – “một vùng sáng rực và lóng lánh”.

Ánh sáng từ đoàn tàu thì đã tới, nhưng ánh sáng thực sự, hạnh phúc thực sự của những con người nơi đây thì mãi vẫn tồn tại trong tâm tưởng mà không biết khi nào mới thành hiện thực. Hình tượng ánh sáng và bóng tối ở Hai đứa trẻ khi đặt vào diễn biến nội tâm tinh tế, phức tạp của Liên trong cảm nhận độ dày của bóng tối từ chiều tới đêm khuya mới thấy rõ trị giá của nó, thấy được độ “khát thèm được chiếu sáng và được thay đổi”(7) của hai đứa trẻ và những người dân nơi đây. trị giá nghệ thuật và trị giá tư tưởng của tác phẩm vì vậy được nâng lên một tầm khác hẳn khiến Hai đứa trẻ của Thạch Lam trở thành một trong những truyện ngắn hay, đặc sắc của văn học Việt Nam.

Nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối như một thủ pháp trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ vừa có điểm giống nhau lẫn khác nhau. Cả hai tác giả đều sử dụng ánh sáng và bóng tối như một nguyên tắc đối lập, một thủ pháp nghệ thuật trong xây dựng tình huống truyện. Nhưng với Nguyễn Tuân ánh sáng và bóng tối vừa đối lập, vừa bổ sung, nâng đỡ nhau, đồng thời có sự chuyển hóa từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật viên quản ngục khi được Huấn Cao “khai tâm” đã nghẹn ngào “xin bái lĩnh”, là một minh chứng cho sự chuyển hóa này. Ánh sáng và bóng tối ở đây từ nghĩa thực đã chuyển thành nghĩa tượng trưng. Đều hướng tới mục đích ngợi ca cái đẹp, nhưng cái đẹp trong văn Nguyễn Tuân là cái đẹp thiêng liêng, sang trọng đã ổn định và có trị giá như một bảo vật văn hóa của dân tộc, như một kiểu chơi đẹp, thú uống trà, chơi chữ, một kiểu sống đẹp, một tư cách đẹp… Chính vì vậy ánh sáng trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là ánh sáng của chân lý, của cái đẹp trong tài hoa, tư cách, nên tác phẩm cũng được kết thúc đẹp bằng sự thắng lợi của ánh sáng với bóng tối, của thiên lương con người với cái xấu cái ác. Bóng tối ở đây vừa là cuộc sống tù đọng, quẩn quanh mòn mỏi âm u – là nét giống với bóng tối trong Hai đứa trẻ – nhưng nó cũng vừa đại diện cho cái xấu cái ác trong cuộc sống cũng như trong bản tính con người, điểm khác với truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.

Với Thạch Lam, bóng tối vừa mang nghĩa tượng trưng cho cuộc sống tù đọng, quẩn quanh nơi phố huyện vừa được sử dụng như phông nền chính nhằm làm vượt bậc ba loại ánh sáng: a) Ánh sáng nơi phố huyện – những quầng sáng giới hạn, nhỏ nhoi, leo lét, những hột sáng… tượng trưng cho số phận mòn mỏi của những con ngưòi nơi đây; b) Ánh sáng đô thị – vừa là quá khứ, vừa là tương lai, là miền ước mơ của hai đứa trẻ; c) Ánh sáng con tàu – ánh sáng thức tỉnh đời sống tỉnh lẻ, như một cầu nối từ hiện tại (ánh sáng phố huyện) về quá khứ (ánh sáng đô thị), rồi hướng tới tương lai (ánh sáng đô thị). Từ đây ánh sáng, bóng tối không còn mang nghĩa thực nữa mà mang nghĩa biểu tượng, biểu tượng của ước mơ, của khát khao hạnh phúc và những điều tốt đẹp trong cuộc sống.

Còn với Nguyễn Tuân, cảm hứng thẩm mỹ của ông bắt nguồn từ cái đẹp lớn lao, cái cao cả, bi tráng hoặc mô tả những tư cách lớn… nên thủ pháp nghệ thuật cũng xây dựng dựa trên sự đối lập gay gắt, ánh sámg và bóng tối cũng được sử dụng nhằm trình bày những tương phản mạnh mẽ, những chuyển biến bất thần, đột ngột. Đó vừa là một thủ pháp trong xây dựng tình huống truyện, vừa là sự dẫn dắt đi tới kết thúc của sự thắng lợi giữa chân lý, cái đẹp với cái xấu, cái ác. Thạch Lam do chỉ chú ý tới những cái thông thường, giản dị, nhỏ nhoi trong cuộc sống nên ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm của ông không có sự chuyển biến dữ dội, bất thần.

Chính từ tính quy phạm của ánh sáng và bóng tối trong hội họa, vào văn học nó đã vừa kế tục vừa phá vỡ tạo ra hiệu quả thẩm mỹ mới, góp phần đắc lực cho xây dựng tình huống truyện, được sử dụng như một tình tiết nghệ thuật đặc sắc. So sánh hai tác phẩm để thấy sự giống nhau và khác nhau trong nghệ thuật sử dụng ánh sáng và bóng tối, lý giải nó từ quan niệm nghệ thuật, vốn văn hóa của tác giả để thấy tài năng của nhà văn và trị giá nghệ thuật to lớn của tác phẩm. Từ đó có thể khắc họa rõ hơn dung mạo của tác giả, tác phẩm, xác lập một cách thức tiếp cận văn bản không phải chỉ từ chính nó mà bằng liên văn bản. Điều này không nằm ngoài mục đích khám phá những vẻ đẹp tiềm tàng của tác phẩm văn học khiến nó luôn mới mẻ, lóng lánh nhiều trị giá.

——————- Hết ——————

tương tự, chúng tôi đã chia sẻ cho những em 4 bài mẫu tìm hiểu ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ. Tiếp theo, để chuẩn bị tốt cho những bài học trên lớp, những em cần tìm hiểu bài tìm hiểu tính nghệ thuật trong Hai đứa Trẻ, Hoàn cảnh sáng tác Bài ca ngất ngưởng, tìm hiểu bài thơ Chạy giặc, tìm hiểu hai câu thơ cuối bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương,…

Bản quyền bài viết thuộc THPT Lê Hồng Phong. Mọi hành vi sao chép đều là gian lận!

Nguồn chia sẻ: https://c3lehongphonghp.edu.vn

Ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ

Bạn thấy bài viết Ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ bên dưới để pgddttramtau.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: pgddttramtau.edu.vn của PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO HUYỆN TRẠM TẤU

Nhớ để nguồn bài viết này: Ánh sáng và bóng tối trong Chữ người tử tù và Hai đứa trẻ của website pgddttramtau.edu.vn

Chuyên mục: Văn học

Xem thêm bài viết hay:  Phát biểu cảm nghĩ về truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh hay nhất - Văn mẫu lớp 6

Viết một bình luận